Dạy học theo phương pháp BTNB hoàn toàn khác nhau giữa các lớp khác nhau phụ thuộc vào trình độ của học sinh. Giảng dạy theo phương pháp BTNB bắt buộc giáo viên phải năng động, không theo một khuôn mẫu nhất định (một giáo án nhất định). Giáo viên được quyền biên soạn tiến trình giảng dạy của mình phù hợp với từng đối tượng học sinh, từng lớp học. Tuy vậy, để giảng dạy theo phương pháp BTNB cũng cần phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau:
a) HS cần phải hiểu rõ câu hỏi đặt ra hay vấn đề trọng tâm của bài học. Để đạt được yêu cầu này, bắt buộc học sinh phải tham gia vào bước hình thành các câu hỏi.
b) Tự làm thí nghiệm là cốt lõi của việc tiếp thu kiến thức khoa học
c) Tìm tòi nghiên cứu khoa học đòi hỏihọc sinhnhiều kĩ năng. Một trong các kĩ năng cơ bản đó là thực hiện một quan sát có chủ đích.
d) Học khoa học không chỉ là hành động với các đồ vật, dụng cụ thí nghiệm màhọc sinhcòn cần phải biết lập luận, trao đổi; biết viết cho mình và cho người khác hiểu.
e) Dùng tài liệu khoa học để kết thúc quá trình tìm tòi - nghiên cứu.
f) Khoa học là một công việc cần sự hợp tác.
Một số phương pháp tiến hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu
a) Phương pháp quan sát: Quan sát được sử dụng để:
- Giải quyết một vấn đề;
- Miêu tả một sự vật, hiện tượng;
- Xác định đối tượng;
- Kết luận.
b) Phương pháp thí nghiệm trực tiếp
Một thí nghiệm yêu cầu học sinh trình bày nên đảm bảo 4 phần chính:
- Vật liệu thí nghiệm;
- Bố trí thí nghiệm;
- Kết quả thu được
- Kết luận.
c) Phương pháp làm mô hình
d) Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Tiến trình dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề.
- Là một tình huống do giáo viên chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học
- Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học.
- Câu hỏi phải phù hợp với trình độ học sinh, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò của học sinh.
- Giáo viên phải dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không được dùng câu hỏi đóng.
Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh.
- Giáo viên khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình về sự vật, hiện tưởng mới.
- Giáo viên cho học sinh trình bày bằng nhiều hình thức: viết, vẽ, nói, ….
- Giáo viên không nhất thiết phải chú ý tới các quan niệm đúng, cần phải chú trọng đến các quan niệm sai.
Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm.
3.1 Đề xuất câu hỏi.
- Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu, GV giúp HS đề xuất câu hỏi.
- GV cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong lớp từ đó HS đặt câu hỏi liên quan đế bài học.àđể giúp học sinh so sánh
3.2 Đề xuất phương án thực nghiệm nghiên cứu.
- Từ những câu hỏi của HS, GV nêu câu hỏi cho HS đề nghị các em đề xuất thực nghiệm để tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi đó.
- GV ghi chú lên bảng các đề xuất của HS để các ý kiến sau không trùng lặp.
- Khuyến khích HS tự đánh giá ý kiến nhau hơn là ý kiến của GV nhận xét.
Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu
- Quan sát tranh và mô hình và ưu tiên thực nghiệm trên vật thật
- Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu, GV giúp HS đề xuất câu hỏi.
- GV cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong lớp từ đó HS đặt câu hỏi liên quan đế bài học để giúp học sinh so sánh
Bước 5: Kết luận kiến thức mới
Sau đây là một số hình ảnh học sinh lớp 3/9 cùng giáo viên khối 3 cô Ngô Thị Mỹ Lâm đang thực hiện:






