1. Khái niệm về giáo dục hoà nhập
Giáo dục hoà nhập là phương thức giáo dục trong đó trẻ khuyết tật cùng học với trẻ em bình
thường trong trường phổ thông ngay tại nơi trẻ sinh sống.
Thuật ngữ giáo dục hoà nhập được xuất phát từ Canada và được hiểu là những trẻ ngoại lệ được
hoà nhập, qui thuộc vào trường hoà nhập. Giáo dục hoà nhập là phương thức giáo dục mọi trẻ
em, trong đó có trẻ khuyết tật, trong lớp học bình thường của trường phổ thông. Giáo dục hòa nhập là "Hỗ trợ mọi học sinh, trong đó có trẻ khuyết tật, cơ hội bình đẳng tiếp nhận giáo dục với những hỗ trợ cần thiết trong lớp học phù hợp tại trường phổ thông nơi trẻ sinh sống nhằm chuẩn bị trở thành những thành viên đầy đủ của xã hội. Hoà nhập không có nghĩa là "xếp chỗ" cho trẻ khuyết tật trong trường lớp phổ thông và không phải tất cả mọi trẻ đều đạt trình độ hoàn toàn như nhau trong mục tiêu giáo dục. Giáo dục hoà nhập đòi hỏi sự hỗ trợ cần thiết để mọi học sinh phát triển hết khả năng của mình. Sự hỗ trợ cần thiết đó được thể hiên trong việc điều chỉnh chương trình, các đồ dùng dạy học, dụng cụ hỗ trợ đặc biệt, các kỹ năng giảng dạy đặc thù,…
Các giáo viên và nhân viên nhà trường cần thấm nhuần tư tưởng hoà nhập để trẻ khuyết tật được phụ thuộc lẫn nhau, được chấp nhận, được có giá trị, được hỗ trợ của bạn bè… Trường hoà nhập là "Tổ chức giải quyết vấn đề đa dạng nhằm chú trọng đến việc học của mọi trẻ. Mọi giáo viên, cán bộ và nhân viên nhà trường cam kết làm việc cùng nhau tạo ra và duy trì môi trường đầm ấm có hiệu quả cho việc học tập. Trách nhiệm cho mọi trẻ được chia sẻ"Giáo dục hoà nhập dựa trên quan điểm xã hội trong việc nhìn nhận đánh giá đúng trẻ khuyết tật. Nguyên nhân gây ra khuyết tật không phải chỉ do khiếm khuyết của bản thân cá thể mà còn là môi trường xã hội. Môi trường xã hội đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của trẻ khuyết tật. Trẻ khuyết tật về vận động (như liệt) sẽ là mất khả năng nếu không có các phương tiện đi lại, không được tham gia vào hoạt động xã hội và sẽ trở thành tàn phế nếu không ai chăm sóc giúp đỡ. Nhưng cũng trẻ đó, nếu được hỗ trợ, có phương tiện đi lại và xã hội có những cơ sở vật chất thích ứng không tạo ra các khó khăn (như có các đường lên xuống dễ dàng cho xe đẩy) và cùng được tham gia vào các hoạt động, trẻ sẽ được bình đẳng và phát triển như mọi trẻ khác.
Giáo dục hoà nhập dựa trên quan điểm tích cực về trẻ khuyết tật. Mọi trẻ khuyết tật đều có những năng lực nhất định, chính từ sự đánh giá đó mà trẻ khuyết tật được coi là chủ thể chứ không phải là đối tượng thụ động trong quá trình tiếp nhận các tác động giáo dục. Từ đó người ta tập trung quan tâm, tìm kiếm những cái mà trẻ khuyết tật có thể làm được.
Các em sẽ làm tốt những việc phù hợp với nhu cầu và năng lực của mình. Trong giáo dục, gia đình, cộng đồng, xã hội cần tạo ra sự hợp tác và hoà nhập với các em trong mọi hoạt động. Vì thế các em phải được học ngay ở trường học gần nhất, nơi các em sinh ra và lớn lên. Các em luôn luôn được gần gũi gia đình, luôn được sưởi ấm bằng tình yêu của cha, mẹ, anh, chị mình và được cả cộng đồng đùm bọc, giúp đỡ. Trẻ khuyết tật sẽ được học cùng một chương trình, cùng lớp, cùng trường với các bạn học sinh bình thường. Cũng như mọi học sinh khác, học sinh khuyết tật là trung tâm của quá trình giáo dục. Các em được tham gia đầy đủ, và bình đẳng mọi công việc trong nhà trường và cộng đồng để thực hiện lý tưởng "trường học cho mọi trẻ em, trong một xã hội cho mọi người". Chính lý tưởng đó tạo cho trẻ khuyết tật niềm tin, lòng tự trọng, ý chí vươn lên để đạt đến mức cao nhất mà năng lực của mình cho phép. Đó là giáo dục hoà nhập.
2. Bản chất của giáo dục hoà nhập
Mọi trẻ em đều được học trong môi trường giáo dục, mà trong đó trẻ có điều kiện và có cơ hội để lĩnh hội những tri thức mới theo nhu cầu và khả năng của mình. Để có một môi trường học tập như vậy cho mọi trẻ em, giáo dục hoà nhập cần đề cập đến những nội dung cơ bản sau đây trong dạy và học:
- Trẻ được học theo một chương trình phổ thông
- Tuỳ theo năng lực và nhu cầu của từng trẻ mà giáo viên có trách nhiệm điều chỉnh nội dung cho
phù hợp
- Đổi mới phương pháp dạy và học, đặc biệt giáo viên cần biết cách điều chỉnh và lựa chọn những hoạt động học tập sao cho mọi trẻ đều có đủ những điều kiện thuận lợi và cơ hội để lĩnh hội kiến thức mới
- Môi trường giáo dục phù hợp cho mọi đối tượng. Porter (1995) đã đề xuất các yếu tố của giáo dục hoà nhập như sau:
• Học sinh khuyết tật được học ở trường thuộc khu vực sinh sống.
• Học sinh khuyết tật, với tỷ lệ hợp lí, được bố trí vào lớp học phù hợp lứa tuổi.
• Cung cấp các dịch vụ và giúp đỡ HS ngay trong trường hoà nhập.
• Mọi học sinh đều là thành viên của tập thể. Bạn bè cùng lứa giúp đỡ lẫn nhau.
• Đánh giá cao tính đa dạng của học sinh.
• Điều chỉnh chương trình phổ thông cho phù hợp với năng lực nhận thức của học sinh. Phương pháp dạy học đa dạng dựa vào điểm mạnh của học sinh. Học sinh với những khả năng khác nhau được học theo nhóm.
• Giáo viên phổ thông và chuyên biệt cùng chia sẻ trách nhiệm giáo dục mọi đối tượng học sinh.
• Chú trọng cả lĩnh hội tri thức và kĩ năng xã hội.
3. Những mặt tích cực của giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật
Giáo dục hoà nhập là mô hình giáo dục trẻ khuyết tật có hiệu quả
Trong giáo dục hoà nhập, trẻ khuyết tật được học ở môi trường bình thường, học ở trường gần nhà nhất. Điều này tạo cho các em không bị tách biệt với bố, mẹ, anh, chị trong gia đình. Các em luôn gần gũi với bạn bè, người thân, người quen ở làng, xã. Sống trong môi trường như vậy ở các em sẽ yên tâm hơn. Những xúc động, vui, buồn, trong tình cảm diễn ra ở trẻ một cách bình thường. Do đó tâm lý ổn định, phát triển cân đối, hài hoà như những trẻ em khác, trong điều kiện đó các em sẽ yên tâm phấn đấu, học tập và phát triển.
Các em được học cùng một chương trình với các bạn bình thường khác. Chương trình và phương pháp ở đây sẽ được điều chỉnh, đổi mới cho phù hợp với nhu cầu, năng lực của các em. Dạy học như vậy sẽ đưa đến hiệu quả cao, các em sẽ phát triển hết khả năng của mình.
Giáo dục hoà nhập coi trọng sự cân đối giữa kiến thức và kỹ năng xã hội. Môi trường giáo dục thay đổi, các em được tự do giao lưu, giúp đỡ lẫn nhau làm cho các em phát triển toàn diện hơn và thích ứng tốt hơn với môi trường xã hội .Giáo dục hoà nhập sẽ tạo ra cơ hội, môi trường để các lực lượng tham gia giáo dục có điều kiện hợp tác với nhau vì mục tiêu chung. Đây cũng là môi trường mà mọi người trong cộng đồng có dịp tiếp cận với trẻ khuyết tật nhiều hơn, thấy rõ hơn những nhu cầu, tiềm năng của các em, những mặt mạnh, khó khăn của các em, từ đó thấy cần phải làm những gì để hỗ trợ các em nhiều hơn. Càng có nhiều người hiểu các em, giúp đỡ các em, chắc chắn các em sẽ có sự phát triển tốt hơn.
Giáo dục hoà nhập là mô hình hoàn thiện nhất trong các mô hình giáo dục trẻ khuyết tật:
Giáo dục hoà nhập có cơ sở lý luận vững chắc về đánh giá con người, về mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và các giải pháp thích hợp trong tổ chức cũng như trong tiến hành giáo dục.
Giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật được áp dụng những lý luận dạy học hiện đại - lấy người học là trung tâm. Chương trình được điều chỉnh, phương pháp đựơc đổi mới thích hợp cho mọi học sinh.
Giáo dục hoà nhập là mô hình giáo dục kinh tế nhất, mang tính nhân văn nhất. Mô hình này làm cho mọi trẻ em đi học đều vui, đều thấy rõ trách nhiệm của mình. Nó cũng làm cho người lớn gần gũi nhau hơn, có cơ hội hợp tác với nhau vì sự nghiệp giáo dục trẻ khuyết tật.
4.Nội dung tìm hiểu nhu cầu và khả năng của trẻ khuyết tật:
1 - Sự phát triển về thể chất: Sự phát triển cân đối của cơ thể: hình dáng bề ngoài, khả năng vận động (Bò, ngồi, đứng. đi, chạy, nhảy ...), khả năng lao động ( tự phục vụ, lao động giúp đỡ gia đình ...), phát triển các giác quan.
2 - Khả năng ngôn ngữ - giao tiếp: Khả năng nghe, đọc, hiểu ngôn ngữ, ngôn ngữ diễn đạt (Khả năng diễn đạt bằng cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, kỹ năng phát âm, vốn từ vựng, ngữ pháp), kỹ năng, viết, khả năng giao tiếp (không lời và bằng lời).
3 - Khả năng nhận thức: Khả năng tri giác (Nghe, nhìn và các giác quan khác), khả năng ghi nhớ, khả năng tư duy, suy nghĩ, phán đoán, giải quyết vấn đề. khả năng hiểu biết về: Con người, thế giới vật chất, phương tiện, công cụ ... khả năng học tập văn hoá, lao động, học nghề ...
4 - Quan hệ xã hội: Mối quan hệ của trẻ đối với mọi người, hành vi ứng xử, cảm xúc, tình cảm ..., khả năng thích hợp, đáp ứng những quy định của gia đình, xã hội, khả năng hội nhập với cộng đồng.
5- Môi trường phát triển của trẻ: Môi trường ăn ở, vệ sinh, chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, văn hoá - xã hội
5.Phương pháp tìm hiểu nhu cầu và khả năng của trẻ khuyết tật
Phương pháp quan sát
*Mục đích: Qua quan sát có thể thu thập được nhiều thông tin phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau. Mục tiêu quan sát có thể là các thông tin về trẻ ở một số lĩnh vực như hành vi, nhận thức, giao tiếp, hoà nhập xã hội, Mục tiêu quan sát trẻ nhằm:
- Phát hiện mặt tích cực và khó khăn của từng trẻ.
- Nhận biết hành vi.
- Phát hiện nhu cầu cần đáp ứng.
- Đánh giá khả năng của trẻ.
- Lập kế hoạch giáo dục để phát triển năng lực.
* Hình thức quan sát. Có hai hình thức quan sát chính là quan sát có chủ định và quan sát không chủ định.
+ Quan sát không chủ định là quan sát ngẫu nhiên quá trình trẻ tham gia vào các hoạt động, người quan sát không tổ chức nhưng có mục tiêu quan sát rõ ràng. Số liệu thu được qua hình thức quan sát này mang tính khách quan cao vì trẻ biểu hiện hết các năng lực và nhucầu của mình trong môi trường hoàn toàn tự nhiên.
+Quan sát có chủ định là hình thức người quan sát chủ động tạo ra các hoạt động để quan sát trẻ. Sự tham gia của người quan sát có thể chia thành các mức độ sau đây:
Quan sát khách quan: người quan sát không can thiệp vào quá trình tham gia các hoạt
động của trẻ mà chỉ như người ngoài cuộc thu thập các thông tin theo nội dung và mục tiêu đã định sẵn
Quan sát bán chủ động: người quan sát chủ yếu vẫn đóng vai trò thu động, nhưng để làm rõ những thông tin cần có người quan sát có thể tạo ra các hoạt động phụ trợ để trẻ tham gia.
*Điều kiện quan sát tốt:
- Xác định rõ mục đích yêu cầu và nhiệm vụ quan sát.
- Chuẩn bị các mẫu ghi chép cụ thể, chi tiết, rõ ràng.
- Xác định hình thức và vị trí quan sát thích hợp.
- Có kế hoạch chuẩn xác: các hoạt động của trẻ diễn ra trong khoảng thời gian không dài nên cần có kế hoạch chi tiết và yêu cầu rõ ràng cho từng thời điểm.
- Tránh những sai lệch trong quan sát. Trong quá trình quan sát, người quan sát thường áp đặt kinh nghiệm, trải nghiệm của mình làm cho các thông tin thu được không chính xác, mang tính chủ quan. Nhiều giáo viên quá tin vào kinh nghiệm của mình nên khi quan sát thường chỉ lấy được các thông tin phiến diện, chủ quan từ đó đánh giá sai lệch về trẻ. Thực tế cho thấy cùng một biểu hiện của trẻ nhưng đựơc nhìn nhận bằng nhiều cách khác nhau tuỳ thuộc vào người quan sát. Để tránh những sai lệch này, người quan sát cần lưu ý một số điểm sau đây:
+ Chỉ ghi nhận những biểu đạt của trẻ một cách khách quan.
+ Phân tích các kết quả thu nhận được một cách khách quan.
Để có thể thu thập được các dữ liệu cần thiết qua quan sát, người quan sát cần: Cần sử dụng cả hai hình thức quan sát chủ định và không chủ định một cách linh hoạt; Quan sát trẻ trong những môi trường khác nhau và trong các hoạt động khác nhau; Quan sát trẻ trong trạng thái tâm lý, tình cảm khác nhau (vui, buồn, tức giận...); Quan sát thường xuyên mọi vấn đề xung quanh đứa trẻ. Quan sát tất cả những biểu hiện hành vi, cách cư xử, cách giao thiệp... để xem xét trẻ làm gì, nói gì, hành vi ứng xử ra sao? Theo dõi những biểu hiện trên nét mặt, cử chỉ, tư thế và điệu bộ “ngôn ngữ thân thể" của trẻ; Chú ý sự khác nhau về ngôn ngữ bằng lời nói với ngôn ngữ không lời; Sau khi quan sát phải có kết luận hoàn toàn khách quan, tránh định kiến chủ quan.
Phương pháp phỏng vấn
Phỏng vấn là một trong các hình thức thường được sử dụng trong việc tìm kiếm các thông tin mà bằng quan sát không thể có được. Qua phỏng vấn ta có thể thu nhận những thông tin sâu kín bên trong của trẻ như ý nghĩ, tình cảm, quan điểm, thái độ,...
* Các hình thức phỏng vấn
- Đàm thoại
+Hình thức “nói chuyện” có định hướng, có hiệu quả để lấy được các thông tin cần thiết trung thực. Trong quá trình “nói chuyện” sẽ xuất hiện nhiều tình huống khác nhau và chủ đề có thể sẽ rất rộng nhiều khi chệch hướng dẫn đến không thu lượm được những thông tin cần thiết. Để đàm thoại có hiệu quả, đúng mục đích, người dẫn chuyện cần phải có các kỹ năng sau đây:
Nắm bắt đối tượng và hướng vào mục đích. Trong lúc đàm thoại người dẫn chuyện cần hướng vào mục đích rõ ràng và cần nắm bắt các suy nghĩ của người đối thoại. Nhạy cảm với những tình huống xuất hiện trong quá trình trao đổi. Mặt khác người dẫn chuyện cũng cần nhạy cảm với các biểu hiện về tình cảm, nắm bắt các suy nghĩ của người đối thoại.
Can thiệp một cách hợp lý, tế nhị vào quá trình đàm thoại.
- Phỏng vấn với câu hỏi định hướng
Câu hỏi định hướng là tập hợp những câu hỏi hoặc những vấn đề cần phải tìm hiểu trong quá trình phỏng vấn. Những câu hỏi này cần được chuẩn bị trước để các điều tra viên thống nhất những thông tin cần phải có sau khi phỏng vấn. Câu hỏi định hướng là những vấn đề “khung” người tiến hành phỏng vấn có thể được tự do trong cách đặt vấn đề, thứ tự các vấn đề nhưng các thông tin cần phải đáp ứng được mục tiêu phỏng vấn.
- Phỏng vấn theo các câu hỏi chuẩn bị sẵn
Người phỏng vấn xây dựng sẵn các câu hỏi, và tiến hành phỏng vấn theo trật tự các câu đã được sắp xếp theo một trình tự nhất định.
* Kỹ năng phỏng vấn:
- Kỹ năng lắng nghe:
+ Tập trung - tập trung hoàn toàn vào người nói
+ Nghe nhiều hơn nói
+ Sử dụng tốt các kỹ năng ngôn ngữ thân thể: Nụ cười, ánh mắt biểu đạt sự đồng cảm, gật đầu, nghiêng về phía người được phỏng vấn, giọng nói nhỏ và dễ nghe.
+ Tỏ ra thân thiện (cởi mở và hữu ích) với thái độ tốt.
+ Tạo ra bầu không khí thân thiện.
+ Nhớ chính xác những điều đã được nói ra.
+ Phản ánh lại ý kiến và cảm giác để đảm bảo bạn đã hiểu chính xác.
+ Kiểm tra lại với người được phỏng vấn.
+ Tránh phân tích và giải thích quá mức.
*Kỹ năng đặt câu hỏi:
- Đưa ra những câu hỏi thích hợp, vào thời điểm thích hợp và đúng cách.
- Bắt đầu bằng câu hỏi chung chung ngắn gọn để kích thích sự bày tỏ cao nhất về những suy nghĩ và cảm xúc.
- Sau đó dùng các câu hỏi có trọng tâm nhằm thu nhập thông tin chính xác và tập trung hơn nữa vào chủ đề.
- Tránh những câu hỏi đóng như câu hỏi chỉ cần trả lời “có" hoặc “không"
- Những câu hỏi tốt là: Câu đơn giản, rõ ràng, cụ thể, có liên quan với mục đích tìmhiểu .
- Người phỏng vấn phải dùng các câu hỏi trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào hình thức nào là phù hợp với cuộc đối thoại.
*Thăm dò:
- Người kiểm tra phải xem xét cẩn thận để phát hiện thêm.
- Kỹ năng khai thác được áp dụng khi thông tin do người được khảo sát đưa ra không chính xác, không rõ ràng, không nhất quán với các thông tin đã đưa ra trước đó.
*Kỹ năng chỉ đạo:
- Dẫn dắt và kiểm soát câu chuyện đi đúng hướng.
- Đưa cuộc phỏng vấn bám vào chủ đề.
- Sử dụng thời gian một cách hợp lý.
Nếu như câu trả lời của người được phỏng vấn lạc đề thì người phỏng vấn cần nhắc lại hoặc nói rõ về câu hỏi.
6. Xây dựng mục tiêu và lập kế hoạch:
Trên cơ sở những thông tin thu được ta có một bức tranh tổng thể về đứa trẻ. Việc giúp đỡ trẻ như thế nào, năng lực nào của trẻ cần được phát triển trước làm cơ sở để hình thành những năng lực khác; và nhu cầu nào cần được ưu tiên đáp ứng. Trong phần này sẽ đề cập đến cách xây dựng mục tiêu và lập kế hoạch giáo dục đối với từng trẻ.
Xây dựng mục tiêu giáo dục cá nhân
* Các quan điểm xây dựng mục tiêu:
- Bình đẳng:
+ Quyền được giáo dục cho mọi trẻ em
+ Quyền bình đẳng về cơ hội: Trẻ em không giống nhau do đó không nên đánh giá cao bằng mà phải căn cứ vào nhu cầu, năng lực của từng trẻ để xây dựng mục tiêu chung.
+ Quyền tham gia các hoạt động xã hội .Làm thế nào để trẻ không cảm thấy bị hạn chế trong khi được học tập, được tham gia mọi hoạt động bình thường trong môi trường giáo dục với mọi trẻ em.
- Quan điểm phát triển:
+ Bất cứ trẻ khuyết tật nào cũng có khả năng phát triển.
+ Cần căn cứ vào qui luật bù trừ chức năng của trẻ khuyết tật để xây dựng mục tiêu.
+ Sự phát triển nhanh hay chậm phụ thuộc phần lớn vào phương pháp giáo dục của người lớn.
- Quan điểm tiếp cận đối với giáo dục phổ thông:
Trong giáo dục hoà nhập, trẻ khuyết tật cùng với trẻ em khác được học chung một chương trình. Giáo viên đặt mục tiêu cho từng trẻ cũng cần đảm bảo nguyên tắc tiếp cận với mục tiêu cấp học, lớp học của phổ thông.
* Phương pháp xây dựng mục tiêu:
Mục tiêu giáo dục cá nhân trẻ khuyết tật được xây dựng dựa các cơ sở sau đây: a)Khả năng của trẻ; b) Nhu cầu cần đáp ứng; c) Mục tiêu cấp học; d) Điều kiện thực hiện(môi trường giáo dục, kinh tế, nhân lực)
Những thông tin trên được rút ra từ kết quả quan sát được trong quá trình tìm hiểu nhu cầu và khả năng của trẻ. Để xây dựng mục tiêu chính xác, giáo viên chủ nhiệm cần tham khảo ý kiến của các giáo viên trong trường, ý kiến của cha mẹ học sinh và nhữngngười có liên quan.
Khi xây dựng mục tiêu cho một trẻ khuyết tật cần theo 5 nội dung :
- Hoà nhập xã hội
- Kiến thức (các môn học)
- Hành vi ứng xử, giao tiếp
- Giáo dục tự phục vụ, lao động, nghề nghiệp
- Phát triển các khả năng
Mục tiêu giáo dục trẻ khuyết tật do giáo viên và phụ huynh học sinh cùng nhóm hỗ trợ xây dựng. Mục tiêu được xây dựng cần mang tính tổng thể để có thể được thực hiện không chỉ trong lớp học, trong trường mà trong cả gia đình và xã hội.
Mục tiêu được xây dựng theo hai hình thức: mục tiêu dài hạn và mục tiêu ngắn hạn.
Khái niệm ngắn và dài hạn chỉ là tương đối. Dài hạn có thể là một hoặc nhiều năm. Ngắn hạn có thể là một học kỳ vài tháng. Điều quan trọng là mục tiêu dài hạn cho thấy cái đích, mong muốn sau một giai đoạn thực hiện giáo dục, còn mục tiêu ngắn hạn cho thấy cái cụthể hơn trong từng giai đoạn, cái cần đạt sau một thời gian cụ thể. Mục tiêu ngắn hạn là định hướng những vấn đề được cụ thể hoá trong kế hoạch giáo dục.
*Lập kế hoạch giáo dục:
Căn cứ vào mục tiêu đã đề ra để xây dựng kế hoạch giáo dục nghĩa là tìm cách đáp ứng những nhu cầu của trẻ (căn cứ vào bảng tóm tắt khả năng và khó khăn để làm kế hoạch). Trong kế hoạch cần phải nói rõ, cụ thể nội dung từng phần, biện pháp, người thực hiện, thời gian và đánh giá kết quả.
*Thiết kế tiến trình giờ học:
Cấu trúc của bất kỳ giờ học nào cũng gồm các khâu: mở bài, giải quyết bài và kết thúc bài. Toàn bộ các khâu đều phải bám sát theo mục tiêu, hướng vào mục tiêu. Tuy nhiên, nhiệm vụ của mỗi khâu lại có những điểm khác nhau.
+Mở bài:
Nhiệm vụ chủ yếu của mở bài là làm cho HS định hướng bài học và có hứng thú tham gia vào các hoạt động học tập. Đồng thời, có thái độ học tập đúng đắn. Một mở bài tốt, có thể ví như một tiếng kẻng hoặc tiếng trống báo thức làm bừng tỉnh trong học sinh hào hứng học tập. Để làm được điều này, học sinh cần được tham gia ngay vào trong quá trình mở bài. Mở bài cần đáp ứng được 3 yêu cầu: 1) Học sinh thấy được sự cần thiết của bài học; 2) Gây hứng thú cho học sinh tập trung vào bài học; 3) Nhiều học sinh tham gia được.
+Giải quyết bài học
Các mục tiêu của tiết học, được giải quyết chủ yếu qua khâu giải quyết bài học. Đây là khâu chiếm hầu hết thời gian của một giờ học. ở đây, diễn ra các hoạt động trí tuệ phối hợp của giáo viên và học sinh thông qua các hoạt động do giáo viên tổ chức. Trong suốt quá trình giải quyết bài học, giáo viên phải duy trì thường xuyên mối quan hệ với tất cả HS, thông qua phương pháp vấn đáp, giao nhiệm vụ và giám sát theo dõi hoạt động học tập của học sinh. Dưới đây là những vấn đề giáo viên cần lưu ý để đảm bảo giải quyết bài học có hiệu quả trong giờ học hoà nhập:
*Giải thích có hiệu quả: Giáo viên tổ chức chuyển tải thông tin bằng các phương tiện giao tiếp phù hợp với trẻ khuyết tật một cách lôgic, sinh động. Đưa ra ví dụ điển hình, đơn giản về vấn đề cần đề cập. Trình bày thông tin phù hợp, cô đọng, chính xác. Trình bày mẫu và ví dụ trước. Đặc điểm của ví dụ điển hình là nhấn mạnh được những đặc điểm chính, không gây ra sự nhầm lẫn hoặc tranh cãi.
*Sử dụng bảng có hiệu quả: Đối với trẻ khiếm thính giải thích bằng ngôn ngữ phù hợp, có thể là ngôn ngữ nói, chữ cái ngón tay, ngôn ngữ kí hiệu, giao tiếp tổng hợp, kĩ lưỡng trước khi viết chữ lên bảng. Phải tiến hành như vậy, bởi lượng tri thức giáo viên cần truyền đạt là nhiều, phong phú mà diện tích bảng lại có hạn, việc trình bày bảng mất nhiều thời gian. Với cách làm đó, học sinh có thể nắm bắt một cách logic, nhanh, không gây ra sự phân tán hoặc khó hiểu.
*Mô hình hoá các kiến thứ: . Để biểu diễn được mối quan hệ giữa kiến thức này với kiến thức khác, cần sử dụng mô hình một cách hợp lí. Tuy nhiên, việc tạo ra một mô hình đơn giản, nhưng hàm ý lại lớn là một việc không phải dễ dàng. giáo viên chuẩn bị kĩ các mô hình trước khi trình bày bài. Đồng thời, phải lưu ý vị trí của các mô hình trên bảng, tránh gây nhầm lẫn hoặc sự khó hiểu cho học sinh. Bên cạnh đó, việc sử dụng từ cũng là một thủ thuật quan trọng. Giáo viên cần lựa chọn từ ngữ ngắn gọn, vừa đủ nhìn. Những từ vừa gọn và vừa trọng tâm. Sau đó, ghi lên bảng với kích thước vừa phải đủ nhìn, ở vị trị thích hợp. Xoá phần cũ, không liên quan trước khi giới thiệu những thông tin mới.
*Thu nhận phản hồi của học sinh: Thu nhận phản hồi của học sinh là một việc làm quan trọng và cần thiết, giúp giáo viên có thể điều chỉnh hoạt động dạy phù hợp với trình độ của học sinh. Để có những thông tin phản hồi trung thực từ phía học sinh, cần theo chỉ dẫn: (1) Lắng nghe phản ứng của học sinh; (2) Tôn trọng ý kiến của học sinh; (3) Nếu câu trả lời của học sinh chưa được như mong muốn, hãy đưa ra thêm những câu hỏi nhỏ, gợi mở phù hợp để dẫn dắt học sinh tiếp tục tìm tòi kiến thức cao hơn hay khắc sâu kiến thức…để đánh giá học sinh chính xác; (4) Cung cấp những gợi ý hoặc trợ giúp khi cần thiết; (5) Đảm bảo mọi thành viên trong lớp phải có ý thức, trách nhiệm phản hồi. Đặt câu hỏi để kiểm tra mức độ lĩnh hội, là một trong những lựa chọn của giáo viên khi muốn thu được phản hồi ngay sau khi giới thiệu tri thức mới. Để có được những thông tin chính xác từ phía học sinh, cần chú ý các vấn đề khi tiến hành đặt câu hỏi: (1) Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng; (2) Cho học sinh đủ thời gian để suy nghĩ; (3) Đưa ra câu hỏi cho cả lớp trước khi yêu cầu cá nhân trả lời. Việc làm này, nhằm khuyến khích mọi học sinh có
trách nhiệm với câu hỏi chứ không riêng học sinh nào; (4) quan sát các biểu hiện thông qua ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, để đoán biết suy nghĩ của HS; (5) Đưa ra những câu hỏi gợi mở tiếp khi cần.
* Khuyến khích các hành vi có thể quan sát được của học sinh: (1) Đưa ra những câu hỏi để kiểm tra mức độ lĩnh hội kiến thức của học sinh (cho học sinh đủ thời gian để suy nghĩ trước khi trả lời); (2) Yêu cầu trẻ: trao đổi với bạn trong nhóm, lấy ví dụ minh họa, làm bài tập độc lập; (3) Khuyến khích trẻ tạo ra những sản phẩm, ...
* Giáo viên cần xem xét thông tin phản hồi: Mục tiêu đặt ra có thích hợp không? Học sinh thấy được ý nghĩa của việc học kiến thức? Tình cảm có chi phối gì đến hoạt động lĩnh hội tri thức đó? Những yếu tố cơ bản nào đã được nhấn mạnh? Dạy học có hướng vào mục tiêu không? Mục tiêu có rõ ràng không? Trẻ cần giúp đỡ gì? (chương trình, phương pháp, đánh giá...). Tài liệu cung cấp có thích hợp không?
* Giáo viên ra quyết định điều chỉnh: (1) Thay đổi mức độ của mục tiêu: Nâng lên hoặc hạ thấp; (2) Nâng cao hoặc hạ thấp mức độ tập trung của học sinh (đến gần, giao nhiệm vụ, chia nhóm, tạo không khí thoải mái trong lớp học...); (3) Thay đổi kỳ vọng: tăng lên hoặc hạ thấp yêu cầu; (4) Dạy lại một phần nào đó của bài học, thêm ví dụ, mô hình hoá, dạy theo nhiều phương pháp khác nhau,...; (5) Thay đổi cách hướng dẫn thực hành: từ độc lập đến hợp tác nhóm; (6) Thay đổi trọng tâm; (7) Phát huy vai trò hướng dẫn của HS trong một số nội dung học tập; (8) Thêm nhiều ví dụ đa dạng phong phú; (9) Điều chỉnh cho cả lớp hay chỉ với một số ít học sinh.
* Giáo viên tạo động cơ học tập của học sinh, đặc biệt là trẻ khuyết tật: (1) Dạy những kiến thức có liên quan ít nhiều tới vấn đề trẻ đã biết và thích thú; (2) Tạo cho học sinh có được những thành công trong học tập. Điều này, không có nghĩa là giao cho HS toàn bài tập dễ rồi cho điểm cao. Nếu tạo động cơ như vậy, học sinh nhạy cảm sẽ nhận ra, và có thể cho rằng mình đang bị coi thường. Học sinh cần có những nhiệm vụ đòi hỏi sự thách thức. Học sinh phải biết rằng, có được thành công không phải là điều dễ dàng. Cần nhấn mạnh đến những cố gắng như thế nào, mới đạt được những thành công; (3) Giúp cho học sinh có trách nhiệm và mối quan tâm tới bài học; (4) Làm tăng, hoặc giảm mức độ đòi hỏi HS tuỳ thuộc từng đối tượng. Ví dụ: đối với học sinh giỏi thì yêu cầu cao, học sinh kém hơn thì yêu cầu thấp hơn; (5) Tạo bầu không khí tin tưởng lẫn nhau, vui vẻ, hào hứng không thái quá; (6) HS hiểu được rằng những kiến thức mình đang học là rất có ý nghĩa với cuộc sống; (7) Đánh giá rõ ràng về kết quả đạt được của học sinh: Hãy chỉ cho học sinh biết mình sai, đúng ở điểm nào; (8) Khen ngợi, động viên kịp thời, đúng lúc. Tránh khen ngợi động viên một vài em.
* Để khuyến khích trẻ khuyết tật tham gia tích cực vào quá trình học, giáo viên có thể dùng những biện pháp: (1) Dựa vào điểm mạnh của trẻ, tôn trọng nhân phẩm học sinh; (2) Đứng gần trẻ; (3) Sử dụng tên của trẻ; (4) Sử dụng quy ước, ký hiệu riêng khi cần thiết. Ví dụ, khi một học sinh nhậy cảm, nhưng đang nói chuyên riêng, giáo viên không nên nêu tên em đó ra trước lớp, mà có thể giữ bộ mặt nghiêm túc hướng về em; (5) Nhắc nhở riêng; (6) Ghi chép đầy đủ về hoạt động của từng HS; (7) Đưa vào đặc điểm riêng của từng học sinh như: sự thay đổi của học sinh, mối quan hệ của em đó, sự thay đổi hành vi,... Giáo viên có thể làm tăng mức độ ghi nhớ của trẻ khuyết tật bằng các thủ thuật: (1)Liên hệ với những kiến thức đã được học; (2) Lấy thông tin này so sánh với thông tin khác; (3) Liên hệ kiến thức đang học với cuộc sống, với sự quan tâm của trẻ và minh hoạ bằng chính trải nghiệm của giáo viên; (4) Sử dụng sơ đồ một cách có ý nghĩa; (5) Sử dụng các mốc ghi nhớ hoặc vẽ tranh, trong đó có thể hiện tri thức vừa học; 6) Dạy kĩ ngay từ khi giới thiệu thông tin với học sinh; (7) Tạo ra bầu không khí hợp lí trong lớp học; 8) Khi giới thiệu thông tin, giáo viên chú ý trình bày sao cho lôgic, cung cấp liều lượng thông tin hợp
lí, không vượt quá 7 thông tin trong một đơn vị nội dung; (9) Đảm bảo cho học sinh được thực hành ngay khi nắm bắt được tri thức mới bằng cách chia nhỏ từng phần thông tin hoặc kết hợp cùng với những kiến thức khác,...
+Kết thúc bài:
Kết thúc một giờ học có ý nghĩa rất quan trọng. Một giờ học tốt, có tiến trình mở bài và giải quyết bài tốt, nhưng kết thúc không hoặc chưa tốt có thể sẽ làm giảm đi trọng tâm, dẫn đến làm giảm chất lượng dạy học. Một giờ học hay phải có kết luận hấp dẫn. Kết luận đó không phải chỉ đơn thuần cho học sinh biết bài học đã kết thúc, mà một lần nữa nhấn mạnh mục tiêu, củng cố kiến thức, làm nổi bật trọng tâm khiến học sinh hiểu sâu, nhớ lâu, nhớ chắc bài học. Nếu gọi mở bài tốt là tiếng trống báo thức thì kết thúc bài tốt phải là tiếng chuông ngân nga mãi trong lòng học sinh, theo chân học sinh về đến nhà rồi lại vào bài học mới.
Kết thúc bài dạy cần được tiến hành theo cách: để HS có nhiều cơ hội tham gia. Trẻ phải cần có cơ hội biểu đạt những gì trẻ đã học được, đặc biệt, trẻ khuyết tật cần được tham gia vào quá trình này. Trên cơ sở đó, giáo viên kiểm tra được những kiến thức, kĩ năng học sinh đã chiếm lĩnh qua bài học. Kết thúc bài học cần đạt 3 yêu cầu sau đây:
• Học sinh tự biểu đạt, tóm tắt những phát hiện chính qua bài học;
• Nhiều trẻ và trẻ khuyết tật được tham gia;
• Trẻ biết/ định hướng việc vận dụng kiến thức vừa học vào thực tiễn.
+Đánh giá kết quả học tập của học sinh:
Thành phần thứ tư của thiết kế và tiến hành giờ học có hiệu quả là đánh giá kết quả. Tôi sử dụng cách đánh giá theo các mức độ khác nhau để thể hiện mức độ chân thực của kết quả. Sự chân thực của kết quả học tập, được xuất hiện khi học sinh mong muốn thể hiện những chiếm lĩnh của mình theo cách riêng. Do tính đa đối tượng của lớp hoà nhập, nên không thể áp dụng hoàn toàn cách đánh giá đối với trẻ bình thường vào đánh giá trẻ khuyết tật, nên việc đánh giá bài học cũng phải có những thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp.
Nội dung đánh giá cần được xem xét các kết quả cuối cùng và tiến trình giờ học.
Đánh giá kết quả lĩnh hội kiến thức, kĩ năng, thái độ của học sinh
+Đối với trẻ bình thường:
• So với mục tiêu đề ra, trẻ đã đạt được gì, nắm được những kiến thức nào, ở mức độ nào, có những kiến thức nào chưa nắm chắc, nguyên nhân tại sao.
• Trẻ có những kĩ năng gì sau bài học. Những kĩ năng đó đạt được ở mức độ nào, khả năng vận dụng vào thực tế cuộc sống ra sao.
• Các nhiệm vụ và bài tập được giao có hoàn thành không? nếu có thì ở mức độ nào, nếu chưa thì do nhân nguyên nào…?
• Thái độ học tập của trẻ trong giờ học như thế nào, tích cực, hứng thú hay thờ ơ, không quan tâm,… tiết học mang lại điều gì mới mẻ và bổ ích đối với trẻ?
+Đối với trẻ khuyết tật:
Trẻ khuyết tật mức độ nhẹ được đánh giá như trẻ bình thường. Đối với trẻ khuyết tật nặng, việc đánh giá cần vận dụng một cách linh hoạt, dựa trên mục tiêu riêng để động viên, khích lệ trẻ đạt kết quả ngày càng tốt hơn. Do hạn chế về nghe – nói, nên các hình thức đánh giá đối với trẻ khuyết tật cần linh hoạt, dựa vào những khả năng biểu đạt khác như: thông qua chữ viết hoặc sự tham gia vào bài học,…
Đánh giá thông qua chữ viết, áp dụng đối với những nội dung trẻ chỉ có thể diễn đạt thông qua chữ viết, mà không thể dùng lời được. Đánh giá hiệu quả bài học thông qua chữ viết nghĩa là: giáo viên xem xét, đánh giá cách trình bày bài tập, trả lời câu hỏi trên giấy, mức độ hiểu nội dung và thực hiện các test theo yêu cầu đặt ra. Ví dụ: trong những bài tập yêu cầu đọc số, có thể thay thế hình thức đọc thành tiếng, bằng hình thức “đọc bằng chữ viết” như: số đọc 213, bằng viết ra giấy là “hai trăm mười ba”. Mặc dù không linh hoạt như ngôn ngữ nói nhưng hình thức chữ viết, là công cụ đắc lực để giúp trẻ khuyết tật trình bày và thể hiện ý tưởng, kiến thức, kĩ năng học được, làm cơ sở cho việc đánh giá hiệu quả giáo dục.
Đánh giá thông qua chữ cái ngón tay. Hình thức này áp dụng khi trẻ khuyết tật cần thể hiện những thông tin một cách trực tiếp qua phương pháp đàm thoại. Thay bằng trình bày thành lời nói, trẻ khuyết tật có thể mô tả những nội dung đó bằng chữ cái ngón tay. Tuy nhiên, hình thức này chỉ được xem là hình thức bổ trợ vì nếu đánh giá hiệu quả bài học chỉ dựa vào chữ cái ngón tay sẽ mất rất nhiều thời gian, và nó chỉ phù hợp với những thông tin ngắn, gọn, trả lời nhanh.
Đánh giá thông qua tính tích cực tham gia vào bài học. Trong quá trình thực hiện kế hoạch giờ học, giáo viên cần chú ý tạo cơ hội cho trẻ khuyết tật tham gia vào mọi hoạt động. Hiệu quả bài học còn được đánh giá qua sự tham gia của trẻ khuyết tật trong quá trình xây dựng ý kiến, trả lời các câu hỏi, có những thắc mắc xoay quanh nội dung bài. Sự tham gia trong hoạt động nhóm, hiệu quả của những lần tham gia,… Trong giáo dục hoà nhập, yếu tố tham gia tích cực vào mọi hoạt động của các đối tượng HS cũng là một tiêu chí đánh giá hiệu quả của bài học. Đánh giá tính tích cực, hứng thú tham gia học tập của học sinh Giờ học diễn ra sôi nổi, các tình huống có vấn đề đặt ra được học sinh nhiệt tình tham gia giải quyết. Các hoạt động nhóm có đảm bảo mọi thành viên đều tích cực tham gia, các yêu cầu có được thực hiện,… Trẻ khuyết tật có tham gia các hoạt động học tập cùng với cả lớp? Có cơ hội phát biểu và bày tỏ ý kiến bằng ngôn ngữ của mình? có đượctôn trọng ý kiến,…?
Từ tình hình thực tế dạy học trẻ hòa nhập nhiều năm liền,tôi đã rút ra được các biện pháp giúp các em hòa nhập học tốt và phát triển bình thường như các bạn cùng trang lứa .Điển hình là hai em :Trần Khải Hoàn và Nguyễn Phúc Hiếu có thành tích học tập tốt .Tuy nhiên em Khải Hoàn có một điểm yếu là chữ viết của em chưa được đẹp .Vì em bị một khuyết điểm nhỏ là tay cầm viết của em rất yếu .Tay em không giống như các bạn .Nhưng chính nghị lực của em và sự quan tâm của tôi cùng với lòng yêu thương ,đoàn kết không phân biệt đối xử của học sinh đối với em thì tôi đã gặt hái được nhiều thành công .Tôi tin chắc rằng với lòng yêu nghề ,mến trẻ của mình thì tôi sẽ không bao giờ lùi bước trước những khó khăn mà sau này có thể tôi sẽ gặp.Đây sẽ là hành trang và cũng sẽ là những kiến thức mà tôi đã được học trong quá trình dạy học của mình.
ST.